RỪNG XÀ NU
I-
NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời
Nguyễn
Trung Thành tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông có bút danh khác là Nguyên Ngọc. Nguyễn Trung Thành
là bút danh được dùng trong những năm ông hoạt động ở chiến trường miền Nam thời
kỳ chống Mĩ cứu nước.
Truyện
ngắn Rừng xà nu công bố lần đầu năm
1965. Khi đó, cách mạng miền Nam đã trải qua thời kỳ đen tối đến lúc Đồng khởi
và đang tiếp tục cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Theo lời
Nguyễn Trung Thành, ông nhớ rất rõ ngày 8-3-1965, mấy vạn lính thủy quân lục
chiến Mĩ đổ bộ vào bãi biển Chu Lai. “Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang,
nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán
một mất một còn trực tiếp với đế quốc Mĩ”.
Vấn
đề đặt ra trong truyện ngắn là vấn đề trung tâm của toàn dân tộc lúc đó: con đường
duy nhất lúc đó cầm vũ khí đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Trong một thế tương quan lực lượng chênh lệch về vũ
khí kỹ thuật, đâu là sức mạnh mang lại thắng lợi cho chúng ta? Truyện ngắn của
Nguyễn Trung Thành góp phần tìm ra câu trả lời: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải
cầm giáo”. Ý chí quyết đấu là nguồn gốc của sức mạnh. Tác phẩm cũng chỉ ra vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân Tây Nguyên bất khuất.
Lúc
nhà văn định viết một truyện ngắn về đồng bằng đánh Mĩ nhưng mấy đêm thức ròng
ông không sao viết được. Ông chuyển qua viết về miền núi và trong một đêm giữa
năm 1965, Rừng xà nu đột ngột đến với
tác giả. Mặc dù câu chuyện hư cấu nhưng các nguyên mẫu đều là có thật, nhà văn
đã gặp họ ở nơi này nơi khác, lúc này lúc khác. Nguyễn Trung Thành kể là ông đã
quen biết ông Núp, ông Mết từ hồi đánh Pháp, khoảng năm 1963 đã gặp anh Đề người
Xê-đăng và nghe anh kể, năm 1959 anh Đề đã cùng 10 trai làng dùng dao dựa,
giáo, mác giết được một tiểu đội lính Diệm. Cuối năm 1963, trong một hội nghị ở
huyện Đắc-lây, Nguyễn Trung Thành đã gặp một cô gái người Ê-đê xinh đẹp, vừa là
cán bộ phụ nữ xã, vừa là du kích. Những con người ấy gặp nhau, âm thầm hình
thành những nhân vật văn học trong tác giả để khi ông viết, chúng hội tụ về dưới
trang văn. Quá trình viết câu chuyện trở nên dễ dàng: “Tất cả, tôi không phải
“bịa” thêm gì cả, tôi thấy rõ hết. Mặc dầu tất cả đay hoàn toàn là một câu chuyện
bịa mà như thật. Với tôi nó hoàn toàn có thật”.
2. Nguyễn Trung Thành nói về biểu tượng rừng xà nu
Cây
xà nu là cây thông. Văn học trung đại đã viết không ít về cây thông, nhưng đều
tập trung khai thác ý nghĩa biểu trưng của cây thông cho phẩm chất của người
quân tử. Bởi lẽ cây thông vẫn xanh tươi ngay cả giữa mùa đông lạnh giá trong
khi tất cả các loài cây khác đều rụng lá. Đây là thứ cây tượng trưng cho sự
kiên cường, bất khuất, không chịu đổi dời bản tính theo ngoại cảnh. Truyện ngắn
Rừng xà nu cũng khai thác nghĩa biểu
trưng của cây thông nhưng không phải là của một cây thông riêng rẽ mà là của một
rừng thông, một “tập thể” thông. Tác phẩm cũng không nhằm vào biểu tượng quân tử
ở cây thông mà hướng đến diễn tả sức sống mạnh mẽ, bất diệt của rừng thông như
một biểu tượng về sức sống mạnh mẽ, bất diệt của những con người Tây Nguyên
bình dị, không một bạo lực nào có thể tiêu diệt nổi. Đây là một nét mới của ý
nghĩa biểu trưng của rừng thông mà văn học cách mạng có thể đưa vào kho tàng
văn học.
Nguyễn
Trung Thành kể về hồi tháng 5 năm 1962 hành quân từ miền Bắc vào đến khu rừng
bát ngát ở phía Tây Thừa Thiên thì gặp cây xà nu. “Tôi say mê cây xà nu từ ngày
đó. Ấy là một thứ cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao
vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã
sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây
vô tận. Không khí ở đây thơm lừng. Nệm lá dưới mặt đất ngả lưng êm ru”. Vì thế,
khi dự định viết về miền núi đánh giặc, Nguyễn Trung Thành đã gặp cây xà nu
trong những dòng đầu tiên: “Bắt đầu đến dưới ngòi bút, gần như không hề tính
trước, là một rừng xà nu, những cây xà nu… rừng xà nu chợt đến và lập tức tôi
biết tôi đã tạo được không khí, đã có không gian ba chiều. Và cũng đã lập tức
nhập được vào không khí và không gian ấy”.
Biểu
tượng xà nu đã hình thành từ thực tế quan sát, suy nghĩ nhiều năm của tác giả để
trong giây lát có thể xuất hiện, dẫn dắt cho mạch truyện.
I-
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm nội dung
a) Rừng xà nu, biểu tượng vế sức sống của
người dân Tây Nguyên
Ý
nghĩa tượng trưng của rừng xà nu rất dễ quan sát thấy qua việc miêu tả rừng xà
nu ở phần mở đầu và phần kết thúc câu chuyện.
Mở
đầu thiên truyện là cuộc chiến đấu thầm lặng mà quyết liệt giữa một bên là rừng
xà nu và một bên là đạn pháo của giặc. Một chi tiết được miêu tả không hề ngẫu
nhiên và trái lại, được tác giả có dụng ý nhấn mạnh: giặc bắn đại bác ngày hai
lần, nhưng “hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”.
Những loạt đạn đại bác là sự thử thách nghiệt ngã đối với rừng xà nu. Hàng vạn
cây xà nu bị thương, nhựa ứa ra, đau đớn uất hận như máu nhỏ. “Ở chỗ viết
thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh ngày hè nắng gắt, rồi dần
dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Nhưng nói tới sự tàn phá
của đại bác giặc cũng là một cách giới thiệu sức sống bất diệt của cây xà nu.
Đối lập với sự tàn phá của đạn đại
bác giặc là hình ảnh rừng xà nu kiên cường, bất khuất, hệt như con người, thế hệ
này nối tiếp thế hệ khác vươn lên trước những làn đạn: “Trong rừng ít có loại
cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm
cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên trời. Cũng có
ít loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy
ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp,
lóng lánh vô số hạt bui vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng […]. Đạn đại bác
không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân
thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã”.
Kết
thúc câu chuyện, nhà văn láy lại hai ý: một số cây xà nu to bị thương, nhựa ứa
ra “lóng lánh nắng hè” và những cây nhỏ đang mọc lên như để thay thế những cây
bị ngã: “Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt
đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng xà
nu có dáng dấp của một tác phẩm luận đề, cách mở đầu và kết thúc hé mở triết
lý mà tác phẩm sẽ phân tích, chứng minh.
Có
thể nói hình tượng rừng xà nu là một biểu tượng đẹp về dân làng Xô Man. Trong
làng này, những người dân tộc Strá cũng quật cường, bất khuất, các thế hệ nối
tiếp nhau cùng chung một truyền thống đấu tranh cách mạng kiên trung, một truyền
thống không khi nào bị gián đoạn, đứt quãng. Cây xà nu ở đay cũng giống như cây
tre dưới xuôi, một biểu tượng đẹp về sức sống dẻo dai bền bỉ của con người.
b) Các thế hệ người Strá tham gia đấu
tranh cách mạng
Nhân
vật trung tâm của tác phẩm- nếu như có yêu cầu phải xác định – có thể tìm thấy ở
nhân vật Tnú. Tuy vậy không thể nói là các nhân vật khác được xây dựng mờ nhạt
hay đơn giản. Tnú chỉ là đại biểu cho một trong các thế hệ nối tiếp đấu tranh
cách mạng ở làng Xô Man.
-
Cụ
Mết là đại diện của thế hệ người Strá đã từng tham gia đánh Pháp nay lại tiếp tục
đánh Mĩ và bè lũ tay sai. Một con người vững chãi, từng trải, một lòng một dạ với
Đảng, với cách mạng. Sức mạnh thể chất và tinh thần toát lên từ vẻ ngoài của cụ
Mết. “Một bà tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt. Anh quay lại:
cụ Mết! Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen
bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải láng bóng. Ông ở trần,
ngực căng như một cây xà nu lớn”. Ở ông già sáu mươi tuổi này “tiếng nói vẫn ồ ồ,
dội vang trong lồng ngực”. Mọi lời nói của cụ đều được dân làng lắng nghe, trân
trọng: “Lúc ông cụ Mết nói, mọi người đều im bặt”. Lẽ đơn giản là cụ thường nói
lên những tư tưởng lớn, có ý nghĩa chân lý; mà cũng không đơn giản là chỉ nói,
cụ dẫn dắt cả làng đi theo con đường cách mạng. Cụ thường nhân dịp thích hợp để
giáo dục, nhắc nhở dân làng về đấu tranh cách mạng. Ví dụ, cụ chỉ chia cho mỗi
người mấy hạt muối quý giá và giải thích: “Năm nay làng không đói. Gạo đủ ăn tới
mùa suốt. Nhưng phải để giành, dự trữ mỗi bếp cho được ba năm […] đánh thằng Mĩ
phải đánh dài”. Cụ triết lí về sức mạnh quật khởi của các thế hệ qua biểu tượng
cây xà nu “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà
nu này”. Lời của người từng trải, kinh lịch thật chắc gọn mà sâu sắc. Cụ Mết
nói: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ hiểu tình huống đầy kịch
tính khi Tnú với hai bàn tay không nhảy ra cứu vợ con: “Tau thấy chúng nó trói
mày bằng dây thừng. Tau k nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không.
Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên. Bọn thanh niên
thì cũng đã đi vào rừng, chúng nó đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con, rõ
chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con
cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cụ Mết không ngờ cụ đã nói lên
một chân lý của thời đại ấy, cũng như ở dưới xuôi kia, trong thành phố, anh Trỗi
nói “Còn thằng Mĩ thì không có ai hạnh phúc”, ở nông thôn, chị Út Tịch nói “Còn
cái lai quần cũng đánh”.
-
Hai
chị em Mai và Dít cũng là một biểu tượng thu nhỏ về sự tiếp nối truyền thống
cách mạng ở Tây Nguyên. Mai cùng với Tnú đã thay các thế hệ trước nuôi cán bộ
cách mạng. Người cán bộ cách mạng – anh Quyết – hỏi: “Các em không sợ giặc bắt
à? Nó giết như anh Xút, như bà Nhan đó”. Để trả lời, Tnú dẫn câu nói như một
chân lí đã được tổng kết từ cụ Mết: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này
còn”. Mối liên hệ gắn bó giữa Đảng và cách mạng, Đảng và dân và nước được họ nhận
thức rất rõ ràng, giản dị. Cái chết đầy xúc động của hai mẹ con Mai do bàn tay
độc ác của kẻ thù chỉ làm cho ý chí chiến đấu của Dít, em gái Mai thêm sắt đá,
kiên cường. Ngày Mai mất, Dít còn nhỏ. “Tnú cầm mấy cây xà nu soi cho Dít gằn gạo.
Nó gằn đủ ba mươi lon gạo trắng, đổ ruột ghét cho Tnú mang đi. Nó lầm lì, không
nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi ngườ, cả cụ già Mết, đều khóc vì cái chết
của Mai”.
Dít
có cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt mà chúng ta chỉ có thể hiểu được khi đặt
vào bối cảnh của phong trào cách mạng miền Nam đầu những năm 60, khi gắn với
truyền thống cách mạng của người dân Tây Nguyên từ hồi chống Pháp. Buổi hội ngộ
đầu tiên của họ sau mấy năm Tnú đi vắng hơi bất ngờ với Tnú. Cặp mắt mở to,
trong suốt, bình thản của Dít nhìn Tnú hồi lâu rồi Dít hỏi Tnú bằng cái giọng lạnh
lùng: “Đồng chí về có giấy không?”. Trong sự lạnh lùng của nguyên tắc đó bao
hàm một nguyên cớ thật đẹp: Dít muốn Tnú phải là một chiến sĩ giải phóng quân mẫu
mực, về phép dù chỉ một đêm cũng phải có giấy phép của chỉ huy. Chỉ sau khi biết
Tnú có giấy phép, Dít mới vồn vã: “Sao anh về có một đêm thôi […] Thôi cũng được.
Về một đêm cho làng thấy mặt là được rồi. Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh
mãi”. Thể hiện tình cảm cá nhân gắn liền một cách hài hòa với sự nghiệp cách mạng
là một đặc điểm phổ biến của văn học cách mạng, tạo nên chất sử thi cho tác phẩm.
- Hình tượng Tnú: mặc dù một đặc điểm lớn
của văn học cách mạng là diễn đạt hài hòa sự nghiệp anh hùng của các cá nhân và
sự nghiệp cách mạng của quần chúng, chúng ta có vẫn có thể nói đến Tnú như một
nhân vật chính, thể hiện cảm hứng của thiên truyện.
là một chiến sĩ cách mạng với những nét đặc
trưng của người dân Tây Nguyên. Cuộc đời anh li kỳ như một huyền thoại trong
thiên sử thi anh hùng ca chói lọi của núi rừng Tây Nguyên. Cụ Mết muốn câu chuyện
về Tnú sẽ được các thế hệ nối tiếp nhau kể cho nhau nghe.
Học
chữ hay quên, nhưng Tnú rất sáng dạ, thông minh khi làm liên lac cho anh Quyết
từ huyện về xã. Tnú chấp nhận khó khăn: không đi đường mòn, cứ xé rừng mà đi;
không vượt sống ở chỗ nước êm mà vượt thác. Đó là vì sự an toàn của những chuyến
đi chuyển thư từ, công văn. Lần cuối cùng bị địch bắt, Tnú đã kịp nuốt cái thư
của cán bộ để giữ bí mật. Rồi anh vượt ngục của kẻ thù trở về. Anh gan góc,
dũng cảm, ít lời mà cương quyết. Khi bị bắt, kẻ thù bắt anh phải khai ai là cộng
sản. Tnú đặt tay lên bụng nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đã phải nhận bao nhát dao
chém của bọn lính. Tnú đã lao vào giữa bọn lính để cứu mẹ con Mai nhưng đã
không cứu được mà thân mình bị bắt. Sự việc đó có nhiều ý nghĩa nhưng cho thấy
bản lĩnh của anh. Khi chúng đốt hai bàn tay anh cũng là lúc tất cả thanh niên
trong làng đã đem những cây dựa mài bằng đá núi Ngọc Linh chém chết hết mười
tên lính.
Mô-típ
bàn tay là một mô-típ có sức diễn đạt rất sâu sắc của thiên truyện. Bàn tay Tnú
như một tấm gương phản ánh tư tưởng, tình cảm của anh. Bàn tay Tnú có lcus đặt
trong lòng bàn tay Mai để rồi họ thành vợ thành chồng. Bàn tay ấy hãnh diện để
lên bụng để trả lời quân thù: Cộng sản “ở đây này”. Khi đau đớn, uất hận, bàn
tay ấy đã bứt hàng chục trái vả mà không biết. Để đe dọa những bàn tay cầm giáo
mác, cầm súng, kẻ địch quấn giẻ tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay của Tnú và
đốt. Nhưng chính lúc kẻ thù định hủy diệt bàn tay thiêng liêng của người dân
Tây Nguyên thì chúng đã phải nhận lấy đòn trừng phạt thích đáng nhất. Các trai
làng cầm giáo mác giết chết mười tên giặc. Đốt hai bàn tay của Tnú tức là tiêu
diệt ý chí đấu tranh cách mạng, chỉ đứng lên giết chết kẻ thù, chặn đứng tội ác
của chúng là con đường sống duy nhất. Tnú đã không dùng dao, dùng súng mà dùng
mười đầu ngón tay cụt bóp cổ chết tên chỉ huy địch cũng là một cách trả lời cho
kẻ thù biết sự khủng bố điên cuồng, độc ác của chúng là vô ích. Tnú kể lại sôi
nổi: “Tôi tống đầu gối lên ngực nó, tôi bóp đèn pin lên mặt nó: Dục, mày có nhớ
tau không? Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ chứ? Tau vẫn
cầm được súng? Mắt nó trắng dã. Tôi nói: Này, tau có súng đây, tau có cả dao
găm đây. Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao nghe
chưa! Dục! Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày thôi!”.
Thằng Dục, đứa đã tẩm dầu đốt tayanh hiển hiện ở bất cứ một tên giặc nào. Trong
sự hồn nhiên của Tnú có chân lý: “Chúng nó đứa nào cũng giống như thằng Dục”.
Tính cách của Tnú là điển hình cho tính cách của người Tây Nguyên: ít lời, giản
dị mà cương quyết, rắn chắc; cuộc đời và số phận của Tnú là điển hình cho số phận
và cuộc đời của người Tây Nguyên: đầy đau thương mà quật cường , anh dũng, một
lòng kiên trung với cách mạng.
2.
Đặc điểm về nghệ thuật
Vốn
là tác giả của Đất nước đứng lên,
Nguyễn Trung Thành hiểu rõ và năm vững văn hóa, đất nước và con người Tây
Nguyên. Ông có sở trường dựng nên không khí của núi rừng Tây Nguyên, văn hóa
Tây Nguyên.
Truyện
ngắn này có sức hấp dẫn nhờ nghệ thuật khắc họa những nét tính cách đặc sắc của
người Tây Nguyên qua ngôn ngữ, ngoại hình, hành động của họ. Người Tây Nguyên
trầm lặng, ít nói nhưng có cách bày tỏ tình cảm, tư tưởng riêng qua hành động.
Khi Tnú về thăm làng cũ, có người nhảy phóc từ trên sàn nhà xuống đất để đón
anh. Cụ Mết có lối mắng yêu thật lạ: “Cha mẹ mày, đi lâu thế! Để cho lũ con gái
chúng nó lớn lên chẳng còn thằng thanh niên nào cho nó bắt chồng!”. Rồi cô Dít
ít lời mà cũng không kém phần ý tứ: “Dít ngồi sụp xuống trước mặt anh, hai chân
xếp về một bên, đưa tay kéo tấm váy che kín cả gót chân”… Ngôn ngữ nhân vật
có bản sắc dân tộc, chắc gọn, đơn giản
mà đầy triết lý. Những chi tiết nho nhỏ như vậy đã dệt thành một bức tranh chân
dung về những người Tây Nguyên vừa lạ lùng, vừa gần gũi thân thương.
Không
gian núi rừng Tây Nguyên cổ sơ, trầm mặc cũng được dựng lại một cách sống động
qua hình ảnh đậm chất Tây Nguyên. Đó là tiếng chày giã gạo như một nỗi nhớ da
diết nhất cho những đứa con Tây Nguyên đi xa. Đó là hồi mõ dìa ba tiếng vang
lên từ phía nhà ưng thôi thúc mọi người lại họp ở chỗ già làng. Đó là các cây
đuốc sáng quanh nhà cụ Mết. Rồi không khí trang trọng, thành kính của dân làng
vây quanh cụ Mết chờ cụ kể chuyện về cuộc đời Tnú như chờ nghe kể khan truyền
thống. Rồi tiếng cồng chiêng, rồi mỏ đá mài trên núi Ngọc Linh đủ dùng cho cả
trăm cuộc khởi nghĩa gươm giáo mác của Tây Nguyên. Có nhà nghiên cứu đưa ra nhận
xét rằng, truyện Rừng xà nu mang đậm
màu sắc sử thi. Chất sử thi toát lên từ tinh thần vì cộng đồng của con người, từ
những vấn đề chung, liên quan đến số phận chung của cả cộng đồng.
Nguyễn
Trung Thành nói “Rừng xà nu” là truyện
của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài như cả một đời. Nhưng
nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ và hạnh phúc”.
Câu chuyện kể một đêm chính là nói câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe kể về
cuộc đời Tnú nhân dịp anh được về nghỉ phép một đêm: “Đêm nay tau kể chuyện nó
cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái
bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi,
chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…”. Đó đúng là thể chức kể sử thi của
người Tây Nguyên. Câu chuyện một đời của Tnú nhưng cũng là câu chuyện của cả
buôn làng, không chỉ kể một đêm mà sẽ kể mãi, như những thiên sử thi đã từng được
kể hàng trăm năm, ngàn năm nay. Thêm một ý nghĩa nữa của câu chuyện Tnú, một
thiên sử thi của thời đại mới.
Tuy
vai người kể chuyện là cụ Mết nhưng thực ra, cách kể của Rừng xà nu khá linh hoạt. Điểm nhìn của người kể có thay đổi, khi
là ngôn ngữ tác giả, khi là lời cụ Mết, khi là chính nhân vật Tnú hiện diện. Ví
dụ, cả đoạn tả Tnú từ gốc cây xông ra đến khi anh bị bọn thằng Dục tẩm dầu vào
giẻ đốt cả mười ngón tay là nhìn tâm trạng anh từ bên trong, người kể hóa thân
vào nhân vật để quan sát, ứng xử và bộ lộ cảm xúc. “Tnú không thèm, không thèm
kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không,
Tnú sẽ không kêu! Không!”. Đây tất nhiên không phải là lời kể của người đứng
nhìn từ bên ngoài mà là cảm nhận của người trong cuộc.